Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

Bệnh viêm gan siêu vi E là gì?

Lúc đầu đó là một bệnh thông thường với các triệu chứng như vàng da, buồn nôn, tiêu chảy và đau bụng dưới, rồi sau đó bệnh sẽ tự khỏi. Nhưng virus gây bệnh viem gan sieu vi E được phát hiện vào năm 1980 có thể gây ra nhiễm trùng gan cấp tính rất nghiêm trọng. Phương cách điều trị duy nhất là ghép gan. Kết quả là tỉ lệ tử vong do viêm gan E trên toàn thế giới có thể đạt đến 4% trong khi viêm gan A chỉ chưa đến 0,02%. Vì những lý do chưa được biết, tử suất ở phụ nữ có thai thậm chí lại vượt quá 20%, nhất là trong 3 tháng cuối thai kỳ. Đến 1/3 số trường hợp bị sẩy thai và trẻ chết khi mới lọt lòng.
Nhưng căn bệnh này gây lo ngại cho giới bác sĩ vì khuynh hướng kéo dài của nó, thậm chí trở thành mãn tính ở những người trên 50 tuổi giống như ở các bệnh nhân đang sống với virus HIV hoặc đang có một bệnh lý về gan khác. Cho đến nay, những khu vực mà viêm gan E hoành hành nhiều nhất là Trung Á, Đông Nam Á, Bắc và Tây Phi, Mêhicô. Và những trường hợp phát hiện bệnh hiếm hoi tại châu Âu là do các du khách mắc phải từ nước ngoài. Nói chung các dòng virus đó đều thuộc loại 1 và loại 2 (những loại virus có mặt tại các nước đang có dịch). Nhưng từ vài năm nay tình thế đã thay đổi và nước Pháp cũng không được loại trừ. Ngày càng có nhiều người dân Pháp mắc phải bệnh viêm gan E loại 3.
Theo bác sĩ chuyên khoa Jean-Pierre Zarski thì không còn nghi ngờ gì nữa, bệnh viêm gan E đang có chiều hướng phát triển. Erwin Duizer, người đã lên tiếng báo động, đưa ra nhận định đầu tiên : “Nguyên nhân hàng đầu chính là những trại chăn nuôi heo”. Quả thật loại gia súc này là vật chủ quan trọng nhất của virus gây bệnh. “Từ 30 đến 55% số heo chăn nuôi đã từng tiếp xúc với VHE loại 3” - bác sĩ thú y Marc Eloit nhận định.
Nhưng dòng virus loại 3 này từ đâu mà ra ? “Giống như virus HIV, những kiểu gène khác nhau của VHE bắt nguồn từ một tổ tiên chung cách đây hàng ngàn năm” - Marc Eloit giải thích. Nhưng từ nay mỗi kiểu gène đều phát triển riêng rẽ, và loại 3 không phải do sự hợp nhất hay đột biến của loại 1 hay loại 2 vốn không có tại châu Âu. Có lẽ các điều kiện chăn nuôi đông đúc đã thúc đẩy sự phát triển của dòng virus này. Sau đó dòng virus này lại đi ra thiên nhiên, nhất là trong những kênh rạch. Cũng giống như các loại virus không có vỏ, VHE khá bền bĩ trong môi trường. Người ta tìm thấy chúng trong 20% sông ngòi ở Hà Lan.
Còn tại Pháp, virus này hiện diện rất nhiều quanh vùng Toulouse, giữa Marseille và Cannes, nhưng lại không hề có ở Bretagne, nơi có rất nhiều trại chăn nuôi heo. Điều này có thể giải thích qua đặc tính lọc của đá granit ở tầng đất ngầm, nhưng điều này còn phải được kiểm chứng. May thay, chưa có nguy cơ sẽ phát triển dịch bệnh trong nước uống vì Pháp có các hệ thống lọc nước ngăn ngừa mọi sự lây nhiễm trên diện rộng. Còn một khả năng nữa là sự lây truyền qua phân, tay nắm cửa hay những cái bắt tay giống như trường hợp của bệnh viêm đường ruột, nhưng ở đây các chuyên gia lại không mấy lo ngại. Lượng VHE trong phân rất ít, trong khi số lượng virus cần thiết để lây nhiễm lại khá lớn. Tuy nhiên những trường hợp lây nhiễm cá biệt sẽ ngày càng tăng mà nguyên nhân là do dùng nước không phải nước máy, ăn thịt tái và đồ biển. Trong năm 2007 nước Anh có ít nhất 21 ca lây nhiễm do dùng thịt heo. Và người ta đã tìm thấy VHE trong gan heo bán tại Mỹ. Nhưng hiện thời người ta vẫn chưa biết việc ướp muối hay hun khói thực phẩm có thể ức chế virus hay không. Và sự gần gũi với thú vật mang virus cũng là một nguy cơ lây nhiễm. Bệnh viêm gan E thường lây cho những người già sống tại vùng nông thôn, trong các trại chăn nuôi.
Như thế viêm gan E là một căn bệnh mới xuất hiện hay có từ lâu nhưng không được chú ý đến ? Với phương cách lan truyền và nguy cơ nào cho y tế cộng đồng ? Tạm thời khó mà trả lời được các câu hỏi này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét